Đây là quyển thứ ba mà Đức Thầy đã viết năm 1939 Tại Hòa-Hảo ( 612 câu )
* * *
Ngồi trên đảnh núi liên đài, Tu hành tầm Đạo một mai cứu đời. Lan-thiên một cõi xa chơi, Non cao đảnh thượng thảnh-thơi vô cùng. Hiu-hiu gió thổi lạnh-lùng, Phất-phơ liễu yếu lạnh-lùng tòng mai. Mùa xuân hứng cảnh lầu đài, Lúc còn xác thịt thi tài hùng-anh. Tứ-vi mây phủ nhiễu đoanh, Bồng-Lai một cõi hữu danh chữ đề. Kể từ Tiên cảnh Ta về, Non Bồng Ta ở dựa kề mấy năm. Dạo chơi tầm bực tri-âm, Nay vì thương chúng trần-gian phản hồi. Nghĩ mình trong sạch đã rồi, Đào tiên tạm thực về ngồi cõi xa. Phong-trần tâm đã rời ra, Ngọc-Thanh là hiệu ai mà dám tranh. Ngày ra chơi chốn rừng xanh, Tối về kinh kệ cửi canh mặc người. Xuống trần lỡ khóc lỡ cười, Ham vui đào mận vuông tròn chẳng xong.
Trang 92
Chừng nào sấu nọ hóa long, Trần-gian mới rõ tấm lòng Thần-Tiên. Thương đời Ta mượn bút nghiên, Thở-than ít tiếng giải phiền lòng son. Bắt đầu cha nọ lạc con, Thân Nầy thương chúng hao-mòn từ đây. Minh-Hoàng chưa ngự đài mây, Gẫm trong thế-sự còn đầy gian-truân. Đò đưa cứu kẻ trầm-luân, Đặng chờ vận đến mới mừng chúa tôi. Thảm-thương thế sự lắm ôi, Dẫy-đầy thê-thảm lắm hồi mê ly. Dạo chơi Lục-Tỉnh một khi, Rước đưa người tục tu-trì xa khơi. No chiều rồi lại đói mơi, Dương-trần sắp vướng bịnh Trời từ đây. Khuyên trần sớm liệu bắp khoai, Cháo rau đỡ dạ tháng ngày cho qua. Nhắn cùng bổn-đạo gần xa, Tu hành trì chí mới là liễu mai. Nguyện cầu qua khỏi nạn tai, Đặng coi Tiên-Thánh lầu-đài quốc-vương. Niệm Phật nào đợi mùi hương, Miễn tâm thành-kính tòa-chương cũng gần. Lao-xao bể Bắc non Tần, Quân Phiên tham báu xa gần cũng qua. Tranh phân cho rõ tài ba, Cùng nhau giành-giựt mới là thây phơi. Khổ-lao đà sắp đến nơi, Thế-gian bớt miệng kêu mời cõi âm.
Trang 93
Dầu cho có ở xa-xăm, Cũng là rán tới viếng thăm dương-trần. Ngũ-Hành cùng các chư Thần, Từ đây sắp đến xuống gần chúng-sanh. Chuông kia treo sợi chỉ mành, Chẳng lo thân phận lo giành bướm ong. Hiếu-trung hãy liệu cho xong, Đến chừng gặp Chúa mới mong trở về. Bây giờ kẻ Sở người Tề, Hiền-lương đến Hội cũng kề với nhau. Phật Trời chẳng luận nghèo giàu, Ai nhiều phước đức được vào cõi Tiên. Hữu phần thì cũng hữu duyên, Sửa tâm hiền-đức cõi Tiên cũng gần. Ta mang mình thịt xác trần, Ra tay dắt chúng được gần Bồng-Lai. Mai sau nhiều cuộc đất cày. Đua nhau mà chạy lầu đài cũng xa. Lập rồi cái Hội Long-Hoa, Đặng coi hiền-đức được là bao nhiêu. Gian-tà hồn xác cũng tiêu, Thảm-thương bá-tánh chín chiều ruột đau. Mặc ai tranh luận thấp cao, Thương trong lê-thứ xáo-xào từ đây. Chinh chinh bóng xế về tây, Đoái nhìn trần-thế xác thây ê-hề. Thương trần Ta cũng rán thề, Đặng cho bá-tánh liệu bề tu thân. Tu hành chẳng được đức ân, Thì Ta chẳng phải xác thân người đời.
Trang 94
Phật truyền Ta dạy mấy lời, Đặng cho trần-thế thức thời tu-thân. Nào là luân-lý Tứ-Ân, Phải lo đền-đáp xác thân mới còn. Ai mà sửa đặng vuông tròn, Long-Vân đến hội lầu son dựa kề. Thương đời văn-vật say mê, Làm điều gian-ác thảm-thê sau nầỵ Kể từ hầu hạ bên Thầy, Vào ra chầu-chực đài mây cũng gần. Tuy là nương dựa non Tần, Ngày sau thế cuộc xoay vần về Nam. Qua sông nhờ được cầu Lam, Tu hành nào đợi chùa am làm gì. Bây giờ bạc lộn với chì, Nữa sau lọc lại vít tì cũng chê. Bớ dân chớ có say mê, Trung-lương chánh-trực dựa kề đài mây. Mảng lo gây-gổ tối ngày, Chẳng lo rèn đúc trí tài hiền-lương. Thân Nầy ăn tuyết nằm sương, Chẳng than chẳng thở vì thương thế-trần. Theo Thầy giảng dạy nhiều lần, Dương-gian nào biết thế-trần nào hay. Cầu cho dân khỏi nạn tai, Qua nơi khổ-não mặc ai chê cười. Bạc đâu dám sánh vàng mười, U-mê mà lại chê cười Thần Tiên. Giã từ sơn-lãnh lâm-tuyền, Về đây hội hiệp sạ duyên tớ Thầy.
Trang 95
Ở rừng bạn với cáo-cầy, Bây giờ xuống thế cáo-cầy lìa xa. Thiên-cơ biến đổi can qua, Gẫm trong thế-giới còn đôi ba phần. Mau mau kíp kíp chuyên cần, Chúng sanh còn có lập thân hội nầy. Tuần huờn Thiên-Địa đổi xây, Cám thương trần-hạ lòng Đây chẳng sờn. Cũng còn kẻ ghét người hờn, Vì không rõ hiểu sạ-dươn của Thầy. Hổ-lang ác-thú muôn bầy, Lớp bay lớp chạy sau nầy đa-đoan. Ai mà ăn ở nghinh-ngang, Đón đường nó bắt xé tan xác hồn. Chữ rằng họa phước vô môn, Đáo đầu cũng phải xác hồn tiêu tan. Khuyên người hữu phước giàu sang, Mau mau làm phước làm doan cho rồi. Để sau khó đứng khôn ngồi, Thương nhà tiếc của biết hồi nào nguôi. Ai mà ăn ở ngược xuôi, Bị nơi rắn rít chẳng vui đâu là. Rắn to tên gọi mãng-xà, Trên rừng nó xuống nó tha dương-trần. Ai mà tu tỉnh chuyên cần, Làm đường ngay thẳng có Thần độ cho. Thương đời hết dạ cần lo, Chẳng lo niệm Phật nhỏ to làm gì. Tu là : tâm trí nhu mì, Tu hiền tu thảo vậy thì cho xong.
Trang 96
Tu cầu cứu vớt Tổ-Tông, Với cho bá-tánh máu hồng bớt rơi. Tu cầu cha mẹ thảnh-thơi, Quốc-vương thủy-thổ chiều mơi phản hồi. Tu đền nợ thế cho rồi, Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen. Người tu phải lánh hơi men, Đừng ham sắc-lịch lắm phen lụy mình. Tu là sửa trọn ân tình, Tào-khang chồng vợ bố-kình đừng phai. Tu cầu Đức Phật Như-Lai, Cứu dân qua khỏi nạn tai buổi nầy. Chữ tu chớ khá trễ chầy, Phải trau phải sửa nghe Thầy dạy khuyên. Ra đời xưng hiệu Khùng Điên, Nào ai có rõ Thần Tiên là gì. Tu không cần lạy cần quì, Ngồi đâu cũng sửa vậy thì mới mau. Trí hiền tâm đức chùi lau, Ra công lọc kỹ thì thau ra vàng. Vinh-hoa phú-quí chẳng màng, Ra oai ra lực cỡi thoàn xa chơi. Con sông dòng nước chiều mơi, Dốc lòng trả nợ nước đời cho xong. Chừng nào bổn-đạo hiểu thông, Thiên-cơ đạo-lý để lòng mới thôi. Chữ vinh chữ nhục mấy hồi, Đến khi thất vận làm mồi yêu tinh. Tu rèn tâm trí cho minh, Tánh kia thành kiếng phỉ tình chùi lau.
Trang 97
Hiểu rồi những việc lao-đao, Ở cùng cô bác làm sao cho tròn. Kính yêu nào phải hao mòn, Ở cho phải nghĩa lòng son mới vừa. Nghinh-ngang hỗn-ẩu phải chừa, Bà con nội ngoại dạ thưa mới là. Xóm diềng phải ở thật-thà, Dầu không quen biết cũng là như quen. Ở cho cha mẹ ngợi khen, Gặp người lâm nạn đua chen giúp giùm. Xác thân là cái gông cùm, Nếu làm chẳng trọn thú hùm xé thây. Cho rồi nhơn-nghĩa mới hay, Lễ-nghi phong-hóa đổi thay làm gì ? Từ đây biến đổi dị-kỳ, Dương-thế chuyện gì cũng có chuyển lay. Rèn tâm cho được thẳng ngay, Khỏi nơi tà quỉ một mai thấy đời. Cũng là người ở trong trời, Cớ sao ăn ở nhiều lời ngổn-ngang. Hung-hăng ỷ của giàu sang, Chẳng kiêng Trời Phật mê-man ỷ tiền. Dạy rồi cái đạo tu hiền, Làm trai nhỏ tuổi tình duyên đang nồng. Cũng đừng ghẹo gái có chồng, Cũng đừng phá-hoại chữ đồng gái trinh. Ra đường chọc ghẹo gái xinh, Nữa sau mắc phải yêu-tinh hư mình. Xử cho vẹn chữ nghĩa tình, Vâng lời cha mẹ mà gìn gia-cang.
Trang 98
Nghiêm-đường chịu lịnh cho an, Loạn-luân cang-kỷ hổ mang tiếng đời. Anh em đừng có đổi dời, Phụ-phàng dưa muối xe lơi nghĩa-tình. Tuy là Trời đất rộng thinh. Có Thần xem xét phân minh cho người. Vô duyên chưa nói mà cười, Chưa đi mà chạy hỡi người vô duyên. Lớn lên phận gái cần-chuyên, Làm ăn thì phải cho siêng mới là. Phải gìn dục-vọng lòng tà, Đừng chiều theo nó vậy mà hư thân ! Nghe lời cha mẹ cân phân, Tam tùng vẹn giữ lập thân buổi nầy. Tình duyên chẳng kíp thì chầy, Chớ đừng cải lịnh gió-mây ngoại-tình. Đi thưa về cũng phải trình, Công, dung, ngôn, hạnh, thân mình phải trau. Công là phải sửa làm sao, Làm ăn các việc tầm-phào chẳng nên. Mình là gái mới lớn lên, Đừng cho công việc hớ-hênh mới là. Chữ dung là phận đàn bà, Vóc hình tươi-tắn đứng đi dịu-dàng. Dầu cho mắc chữ nghèo-nàn, Cũng là phải sửa phải sang mới mầu. Ngôn là lời nói mặc dầu, Cũng cho nghiêm-chỉnh mới hầu khôn-ngoan. Đừng dùng lời tiếng phang-ngang. Thì cha với mẹ mới an tấm lòng.
Trang 99
Hạnh là đức tánh phải không ? Ở cùng chòm-xóm đừng cho mất lòng. Bốn điều nếu đã làm xong, Cũng gìn chữ hiếu phục tòng song thân. Dạy rồi những chuyện đức ân, Phận làm cha mẹ xử phân lẽ nào. Lỗi-lầm chớ có hùng-hào, Đừng chưởi đừng rủa đừng cào đừng bươi. Đem lời hiền-đức tốt tươi, Đặng mà giáo-hóa vàng mười chẳng hơn. Cũng đừng gây gổ giận-hờn, Cho con bắt chước sạ duơn mới là. Nam-Mô sáu chữ Di-Đà, Từ-bi tế-độ vậy mà chúng-sanh. Xưa nay Sáu Chữ lạnh tanh, Chẳng ai chịu khó niệm sành thử coi. Trì tâm thì quá ít-oi, Bây giờ dùng thử mà coi lẽ nào. Rạch tim đem để Nó vào, Thì là mới khỏi máu đào tuôn rơi. Để sau đến việc tả-tơi, Rồi tu sao kịp chiều mơi cho thành. Ngày nay chim đã gặp cành, Chẳng lo đậu lại cho rành gió mưa. Tu hành nhiều kẻ chẳng ưa, Mặc ai gièm siểm sớm trưa chẳng màng. Gẫm trong thế-sự trần-hoàn, Người hung người ác tà-gian cũng nhiều. Thương đời ta mới đánh liều, Mong người tu tỉnh ít nhiều cũng hay.
Trang 100
Muốn tu còn đợi chiều mai, Khuyên người rèn sớm thì xài lâu hư. Những người có của tiền dư, Hãy nên bố-thí dành tư làm gì. Sau đây nhiều chuyện ly-kỳ, Kể sao cho xiết vậy thì dân ôi ! Tại sao chẳng cúng chè xôi, Bởi vì tận thế Phật thôi ăn chè. Cũng không có muốn hoa-hòe, Lầu-đài sơn phết cũng là chẳng ham. Ai chê khờ dại cũng cam, Chớ Tôi cũng chẳng có ham lầu đài. Chữ tu hãy rán miệt-mài, Đừng kể vắn dài đừng nệ mau lâu. Giáo khuyên khắp hết đâu đâu, Bớt điều mị-dối mới hầu thấy Ta. Đừng theo lũ quỉ lũ ma, Cúng kiếng nó mà nó phải ăn quen. Chết rồi cũng bớt cóc keng, Trống đờn lễ nhạc tế xen ích gì. Đàn nhu thầy lễ cũng kỳ, Mắc phải chuyện gì phủ phục bình hưng ? Lại thêm đờn địch từng tưng, Đem con heo sống mà dưng làm gì ? Chủ gia kẻ lạy người quì, Làm chuyện dị-kỳ giả-dối hay không ? Nếu không thì trả lời không, Bằng mà có dối thì hòng sửa đi. Thương đời Ta luống sầu-bi, Học nho cứ mãi làm thi ngạo đời.
Trang 101
Rung đùi ngâm chuyện trên trời, Tình-duyên cá nước vậy thời dỗ con. Thấy đời Ta cũng héo von, Học nho mà chẳng làm tròn nghĩa-nhơn. Khoe mình chẳng có ai hơn, Nhờ làm thuốc bắc đỡ cơn túng nghèo. Hiền nhơn chẳng chịu làm theo, Đợi ai có bịnh túng nghèo chẳng tha. Hốt thời cắc bảy cắc ba, Nó đòi năm cắc người ta hoảng hồn. Lành bay còn ác lại tồn, Đến chừng lập Hội xác hồn lìa xa. Mấy anh thầy thuốc Lang-sa, Cũng là mổ mật người ta lấy tiền. Xin trong anh chị đừng phiền, Đồng bạc đồng tiền là thứ phi ân. Muốn sau dựa được Các-Lân, Hãy nên trau sửa hiền-nhân mới là. Những người quê dốt thật-thà, Cũng nên tu niệm nhờ mà thân sau. Lập đời mới biết thấp cao, Bây giờ chưa biết ai thau ai chì. Đời xưa có Ngũ-Viên-Kỳ, Đem tài học thuốc hiến thì cho dân. Người xưa còn chẳng cần thân, Miễn cho trong nước chúng dân được nhờ. Để tâm yên-lặng như tờ, Nghĩ suy lời lẽ tỏ mờ thể nao. Luận xem thế sự thấp cao, Khuyên dân hãy bớt làm màu hiếu nhi.
Trang 102
Bớt bỏ rình-rang một khi,
Nếu cha mẹ chết làm y lời nầy.
Là lời truyền-giáo của Thầy,
Bông hoa cầu Phật hiệp vầy đi chôn.
Còn mình muốn đãi làng thôn,
Thì là tùy ý đáp ngôn cho người.
Gẫm trong thế sự nực cười,
Chẳng lo cải sửa cho người tâm ngay.
Mình làm chữ hiếu mới hay,
Chớ mướn người ngoài cầu nguyện khó siêu.
Muốn cho tội lỗi mòn tiêu,
Thành tâm cầu nguyện sớm chiều mới hay.
Mục-Liên cứu mẹ bằng nay,
Nhờ người hiếu hạnh tâm rày từ-bi.
Ai ai hãy rán mà suy,
Thương đời Ta tỏ chuyện ni rõ-ràng.
Làm tuần trà rượu xình-xoàng,
Rồi thì chưởi-lộn mà an nỗi gì ?
Dương-trần làm chuyện dị-kỳ,
Tạo nhiều cảnh giả chơn thì chẳng theo.
Của tiền chớ có bỏ theo,
Chết rồi tế-lễ bò heo làm gì ?
Nếu ai biết chữ tu trì,
Cha mẹ còn sống vậy thì cho ăn.
Không làm để ở lung-lăng,
Chưởi cha mắng mẹ lăng-xăng thiếu gì.
Ở cho biết nhượng biết tùy,
Vui lòng cha mẹ vậy thì mới ngoan.
Đạo là vốn thiệt cái đàng,
Ta ra sức dọn cho toàn chúng-sanh.
Trang 103
Thôi thôi bớt miệng hùng-anh,
Ở nơi cửa khẩu thiệt rành tiếng ni.
Chưng bày quân-tử làm chi,
Của đồ hổ-bịt vậy thì xưng hô.
Lũ đàng lũ điếm hồ-đồ,
Anh-hùng quân-tử xưng hô rền trời.
Gặp ai mắc nạn cười chơi,
Chớ không ra sức giúp đời điều chi.
Hổ mình là bực tu mi,
Chưa tròn bổn-phận mà ti tôn mình.
Kể từ thượng lộ đăng trình,
Vào Nam ra Bắc mặc tình bôn-phi.
Khuyên răn trần-thế một khi,
Tuồng đời sắp hạ bằng ni rõ ràng.
Dương-gian làm huyễn nói càn,
Cùng xóm cuối làng đâu cũng như đâu.
Hò reo giục trống nhiều câu,
Sai đồng khiển quỉ nói lâu nực cười.
Ta khuyên hết thảy các người,
Nhiều chuyện trò cười hãy bỏ bớt đi.
Đừng hò đừng réo làm chi,
Nghinh-ngang kêu múa có khi hại mình.
Nghe không thì cũng mặc tình,
Nói cho rõ-rệt dân tin không là.
Quan-Âm Nam-Hải Phổ-Đà,
Cùng Thầy ra lịnh nên Ta giáo-truyền.
Thánh Thần không phải thiếu tiền,
Mà kêu mà réo xuống trần mà sai.
Nam-Mô Quan-Âm Như-Lai,
Cầu xin chư Phật cứu nay dương-trần.
Trang 104
Khuyên đừng chưởi Thánh mắng Thần,
Xưa nay thứ lỗi thế-trần chẳng kiêng.
Lưỡng Thần ghi chép liên miên,
Nào tội nào phước dưới miền trần gian.
Tâu qua Thượng-Đế Ngọc-Hoàng,
Dương trần hung ác đa đoan quá nhiều.
Chúng-sanh ngang-ngược làm liều,
Ngọc-Hoàng Ngài muốn xử tiêu cho rồi.
Minh-Vương khó đứng khôn ngồi,
Thảm thương lê-thứ mắc hồi gian-truân.
Trước đền mắt ngọc lụy rưng,
Quí yêu bá-tánh biết chừng nào nguôi.
Làm sao cho dạ được vui,
Cúi đầu lạy Phật cầu xin cứu trần.
Lời khuyên xưa cũng một lần,
Nay mượn xác trần xuống bút ra cơ.
Khôn-ngoan nghe nói ngẩn-ngơ,
Ngu-si thì tưởng như thơ biếm đời.
Ở đâu cũng Phật cũng Trời,
Tâm thành chí nguyện xem đời khó chi.
Văn-Thù Bồ-Tát từ-bi,
Chèo thuyền Bát-Nhã cứu thì trần-gian.
Gió đưa lướt sóng buồm loan,
Rước người tu niệm xuê-xang phỉ tình.
Ai mà Ta dạy chẳng gìn,
Thì sau đừng trách mất tình yêu-đương.
Bàn-môn tài phép nào tường,
Kêu Trời giậm Đất cũng thì dạ rân.
Nói cho trần-thế liệu toan,
Chớ theo tả-đạo mà tan xác hồn.
Trang 105
Nó làm nhiều phép nhiều môn,
Bùa mê thuốc lú mê hồn chúng-sanh.
Thành binh sái đậu cũng rành,
Nếu tin thời mắc tan tành về sau.
Bây giờ bất luận người nào,
Không dùng của thế sắc màu cũng không.
Nói cho bổn đạo rõ lòng,
Ấy là chơn-chánh mới hòng vinh-vang.
Địa-Tiên tài phép đa đoan,
Phi đao bửu kiếm mê-man mắt trần.
Phật truyền thâu hết phép Thần,
Cứu an bá-tánh một lần nạn nguy.
Phiên-binh bốn phía tứ vi,
Kể sao cho xiết chuyện ni sau nầy.
Lớp thì thú ác dẫy-đầy,
Lớp thì tranh đấu tối ngày chẳng thôi.
Kẻ hung chừng đó làm mồi,
Cho bầy ác-thú đền bồi tội xưa.
Bây giờ còn mãi lọc lừa,
Chẳng lo kiếm chỗ đụt mưa sau nầỵ
Hiền lành chừng đó sum vầy,
Quân-thần cộng lạc mấy ngày vui chơi.
Đến đó Ta mới mừng cười,
Nhìn xem Ngọc-Đế giữa Trời định phân.
Thiên-Hoàng mở cửa Các-Lân,
Địa-Hoàng cũng mở mấy từng ngục môn.
Mười cửa xem thấy ghê hồn,
Cho trần coi thử có mà hay không.
Nhơn-Hoàng cũng lấy lẽ công,
Cũng đồng trừng-trị kẻ lòng tà-gian.
Trang 106
Ấy là đến lúc xuê-xang,
Tam-Hoàng trở lại là đời Thượng-Ngươn.
Khuyên dân lòng chớ có sờn,
Rán tu thì được xem đờn trên mây.
Người hung chết đất chật thây,
Nhìn xem bắt thảm ngày rày cho dân.
Mấy người còn được xác thân,
Thì là Đài-Ngọc Các-Lân mới kề.
Bây giờ kẻ nhún người trề,
Chê Ta rằng dại rằng khờ cũng cam.
Dương-trần bỏ bớt tánh tham,
Đừng chơi cờ-bạc đừng làm ác-gian.
Để sau coi Hội coi hàng,
Coi Tiên coi Phật mới ngoan bớ trần.
Điếm-đàng đĩ-thõa chớ gần,
Để sau xem thấy non Tần xôn-xao.
Tuy nghèo dùng đỡ cháo rau,
Bền lòng niệm Phật thì sau thanh nhàn.
Đừng quen thói cũ làm càn,
Trộm gà cắp vịt xóm làng ghét vơ.
Khi xưa Ta cũng làm thơ,
Mà đời trần-hạ làm ngơ ít nhìn.
Dạy cho trần-thế phỉ tình,
Đàng Tiên cõi tục phân minh hai đường.
Bây giờ hát bộ là thường,
Để sau Phật hát tỏ tường cho xem.
Cải-lương tuồng ấy cũ mèm,
Tốn tiền buồn ngủ lại thèm đồ ăn.
Nhảy lui nhảy tới lăng-xăng,
Làm tuồng mèo mả thêm nhăng cho đời.
Trang 107
Hạ-ngươn lòng dạ đổi dời,
Bây giờ khổ-não đến đời là đây.
Rán nghe lời dạy của Thầy,
Để chừng đến việc kiếm Thầy khó ra.
Tây-Phương Thầy lại quá xa,
Nên Ta mới nói cạn lời dân nghe.
Đừng ham lên ngựa xuống xe,
Ăn xài phí của lụa the làm gì.
Xuống trần Ta dạy cố lỳ,
Cốt cho trần-thế nghe thì mới thôi.
Ngày nay xe lết xe lôi,
Đúng lời truyền sấm của hồi đời Lê.
Là năm Rồng, Rắn, Ngựa, Dê,
Chúng-sanh thế-giới ê-hề thây phơi.
Trạng-Trình truyền sấm mấy lời,
Ngày nay dân-chúng vậy thời rán tri.
Hiền nhơn bổn phận tu mi,
Hãy mau thức tỉnh kiếm thì huyền-cơ.
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Chúng-sanh còn đợi còn chờ chuyện chi.
Trên Trời xuất hiện Tử-Vi,
Quang-minh sáng suốt vậy thì dân ôi !
Thương dân khó đứng khôn ngồi,
Xót-xa dạ Ngọc bồi-hồi tâm Trung.
Gió dông thì cội cây rung,
Phương xa có giặc thung-dung đặng nào ?
Trời tây chúng nó hùng-hào,
Đem lòng gây-gổ máu đào mới tuôn.
Cầu Trời cho chúng qua truông,
Thế-gian yên-lặng hát tuồng khải-ca.
Trang 108
Tây-Phương tuy ở cõi xa,
Thành tâm thì có Phật mà đáo lai.
Ước mong dân khỏi nạn tai,
Dắt-dìu Tiên-cảnh Bồng-Lai nhiều người.
Xem trần khó nỗi vui cười,
Lo giàu lo lợi chẳng rồi bớ dân.
Mẹ cha là kẻ trọng ân,
Dưỡng nuôi báo hiếu lúc thân yếu già.
Giường linh đơm quảy mới là,
Có chi cúng nấy vậy mà dân ôi !
Ta là thân phận làm tôi,
Phải đền phải đáp cho rồi mới hay.
Mặc ai tranh luận đấu tài,
Khuyên dân nên hãy miệt-mài chữ Tu.
Giảng nầy ra cuối mùa thu,
Dạy ăn dạy ở chữ Tu vuông tròn.
Học theo mối đạo làm con,
Luận xem học mới mấy đon đời nầy.
Văn-minh sửa mặt sửa mày,
Áo quần láng mướt ngày rày ăn chơi.
Dọn xem hình vóc lả-lơi.
Ra đường ăn nói những lời nguyệt-hoa.
Trong tâm nhớ những điều tà,
Lời ăn tiếng nói thiệt là quá lanh.
Xưng là đầu trẻ tuổi xanh,
Chẳng trau hiền-đức học hành làm chi ?
Khôn-ngoan thời những chuyện gì,
Cũng là lừa dối vậy thì dân quê.
Người xưa nó lại khinh chê,
Ông cha hủ bại u mê hơn mình.
Trang 109
Tự-do trai gái kết tình,
Với lo trau sửa cho mình đẹp tươi.
Gái trai đến tuổi đôi mươi.
Chẳng kiêng cha mẹ nói cười lả-lơi.
So hình sửa sắc chiều mơi,
Đặng làm những chuyện trái đời vô liêm.
Cớ sao chê cổ trọng kim,
Phụ cha phản chúa lỗi niềm tôi con.
Thấy đời trần-hạ thon-von,
Ai nuôi cho lớn mà còn khinh-khi.
Ông cha thuở trước ngu-si,
Mà ngay mà thật hơn thì đời nay,
Học hay lợi dụng tiền tài,
Lên quan xuống huyện ăn xài lả-lê.
Gặp ai đói rách cười chê,
Miệng kia hễ mở chưởi thề vang rân.
Chẳng lo rèn trí lập thân,
Để làm xảo-trá khổ thân sau nầy.
Giáo-viên các sở các thầy,
Khuyên mau tỉnh ngộ tập rày lòng nhơn.
Giúp đời đừng đợi trả ơn,
Miễn tròn bổn-phận hay hơn bạc vàng.
Đánh liều Ta cũng nói càn,
Cứu dân bất luận giàu sang khó nghèo.
Vinh-hoa như thể bọt bèo,
Hiền-lương bất luận khó nghèo cũng xinh.
Nhắc năm Gia-Tĩnh triều Minh,
Nàng Kiều vì hiếu bán mình chuộc cha.
Tuy là lưu-lạc bôn-ba,
Đến khi mãn hạn bạn xưa cũng nhìn.
Trang 110
Ghét ưa Ta cũng mặc tình,
Nghiệm kim suy cổ biện minh thế nào.
Bá-gia kẻ thấp người cao,
Hiền thần hiếu nghĩa rán trau cho rồi.
Giảng nầy chỉ các điều tồi,
Khuyên dân hãy rán mà ngồi mà suy.
Thân ta, Ta chẳng tiếc chi,
Miễn cho bá-tánh nạn gì cũng qua.
Luận xem những việc sâu xa,
Chúng-sanh tưởng Phật thì là hãy coi.
Tháng ngày như thể đưa thoi,
Nguyện cầu thế-giới bớt ngòi chiến-tranh.
Ngồi buồn dân gặp chiếu manh,
Ta cho bá-tánh bức tranh vô hình.
Ai ai cũng rán xét mình,
Nếu còn tánh xấu thì rinh ra ngoài.
Cạn lời mà ý còn dài,
Hiến cho trần-hạ một bài ngụ-ngôn.
Tới đây Ta giã làng thôn,
Ngọc-Thanh lui gót phi-bôn Nam-Kỳ.
Hiền thần sách sử nêu ghi,
Miễu son tạc để tu-mi trung thần.
Thôi thôi cảnh khổ hầu gần,
Ta khuyên dân-chúng ân-cần nhìn xem.
Ra đời dạy-dỗ anh em,
Xem qua ít bận rán đem vào lòng.
Người tu như thể bá-tòng,
Ai ai cũng quí cũng trông cũng nhìn.
Sửa trau là phận của mình,
Xưa nay lời lẽ sử kinh rõ ràng.
Trang 111
Chừng nào ta gặp Hớn-Hoàng,
Chúng-sanh mới hết phàn-nàn số căn.
Mạnh-Tông xưa cũng khóc măng,
Đất khô nẩy mụt rõ lòng hiếu-nhi.
Mặc ai nhạo-báng khinh-khi,
Phần ta niệm chữ từ-bi độ đời.
Muốn xem được Phật được Trời,
Thì là phải rán nghe lời dạy răn.
Bá-gia cùng các chư tăng,
Việc tu không đợi hương đăng làm gì.
Đời cùng tu gấp kịp thì,
Đặng xem báu ngọc ly-kỳ Năm Non.
Phật thương bổn-đạo như con,
Muốn cho bổn-đạo lòng son ghi lời.
Nữa sau đến việc biết đời,
Bây giờ chưa thấy nó thời không tin.
Tới đây cũng dứt giảng kinh,
Nếu ai biết sửa tâm linh mới mầu.
Nam-mô lòng sở nguyện-cầu,
Chúc cho bá-tánh muôn sầu tiêu tan.
* * *
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT (tam niệm) Cầu Phật-Tổ, Phật-Thầy, quan Thượng-Đẳng Đại-Thần, chư quan Cựu-Thần, chư vị Sơn-Thần, chư vị Năm Non Bảy Núi phổ-độ bá-tánh vạn dân tiêu tai tịnh sự giải-thoát mê-ly